Quốc vương và Hoàng đế George_V

Ngày 6 tháng 5 năm 1910, Quốc vương Edward mất, và George lên ngôi. Ông viết trong quyển nhật ký, "Tôi đã mất đi người bạn tuyệt vời nhất và người cha tuyệt vời nhất ... Tôi không bao giờ to tiếng với ông ấy trong suốt cuộc đời tôi. Tôi đau lòng và choáng ngợp với sự đau buồn nhưng nhờ Chúa tôi sẽ gánh vác trách nhiệm và May thân yêu là niềm an ủi của tôi vì cô ấy luôn là như vậy. Xin Chúa cho tôi sức mạnh và hướng dẫn tôi thực hiện các nhiệm vụ nặng nề đang đặt trên vai tôi".[38]

George không thích thói quen của vợ ông là dùng tên "Victoria Mary" khi ký vào các văn bản và tài liệu và đòi bà bỏ đi một trong hai chữ đó. Cả hai người đều nghĩ rằng bà không nên được gọi là Vương hậu Victoria (trong tiếng Anh là "Queen Victoria", rất giống với tước hiệu của Nữ vương Victoria), và vì thế bà được gọi là Vương hậu Mary.[39] Cuối năm đó, một tuyên truyền viên Cấp tiến, Edward Mylius, đã xuất bản một tài liệu giả dối loan tin rằng George đã bí mật kết hôn ở Malta với một người đàn ông trẻ, và cuộc hôn nhân của ông với Vương hậu Mary là theo chế độ đa thê. Lời nói dối lần đầu được xuất bản năm 1893 nhưng George nhún vai xem đó như một trò đùa. Trong một nỗ lực để dẹp tan những tin đồn, Mylius bị bắt giữ, xét xử và bị kết án phỉ báng hình sự, và bị bỏ tù một năm.[40]

George phản đối những đoạn có nội dung chống Công giáo trong Tuyên bố đăng quang mà ông sẽ đọc trong phiên khai mạc đầu tiên của Quốc hội. Ông cho biết rằng ông sẽ từ chối khai mạc Quốc hội trừ phi tuyên bố được sửa đổi. Vì vậy, Tuyên bố lên ngôi 1910 rút ngắn nội dung hơn và loại bỏ phần nhiều những từ ngữ gây khó chịu.[41]

Vua George và Hoàng hậu Mary tại Delhi Durbar, 1911.

Lễ đăng quang của George và Mary diễn ra tại Tu viện Westminster ngày 22 tháng 6 năm 1911,[15] và tổ chức Liên hoan đế quốc ở London. Tháng 7, Vua và Vương hậu đến thăm Ireland trong năm ngày; họ nhận được sự chào đón cuồng nhiệt, với hàng ngàn người đứng hai bên đường cổ vũ cho cuộc diễu hành.[42][43] Cuối năm 1911, Quốc vương và Vương hậu đến Ấn Độ làm lễ lên ngôi, nơi đây họ nhận được sự triều kiến của các chức sắc Ấn Độ và các hoàng thân với cương vị Hoàng đế và Hoàng hậu Ấn Độ ngày 12 tháng 12 năm 1911. George được tôn làm Hoàng đế của Ấn Độ tại buổi lễ, và tuyên bố dời đô từ Calcutta tới Delhi. Họ đi khắp tiểu lục địa, và George có cơ hội tham gia trò chơi săn bắn lớn tại Nepal, bắn hạ được 21 con hổ, tám con tê giác và một con gấu trong hơn 10 ngày.[44] Ông là một tay thiện xa lão luyện và cừ khôi.[45] Ngày 18 tháng 12 năm 1913 ông đã bắn được hơn 1000 con chim trĩ trong sáu giờ[46] tại tư gia của Nam tước Burnham, dù cho ông thậm chí đã thừa nhận vào ngày hôm đó rằng "chúng ta đã đi xa một chút".[47]

Hoạt động chính trị

A half-sovereign minted during George's reign (Bertram Mackennal, sculptor)

George kế vị ngai vàng vào thời điểm chính trị bất ổn.[48] Ngân sách của dân, một dự luật của Lloyd George bị bác bỏ năm trước bởi Đảng bảo thủđảng viên Hợp nhất - chi phối Thượng viện, trái với nguyên tắc thông thường là các lãnh chúa sẽ không phủ quyết những dự luật tài chính.[49] Thủ tướng đảng Tự do H. H. Asquith đề nghị vua tiên vương đưa ra cam kết rằng ông ta sẽ tấn phong các khanh tướng của đảng Tự do vào Thượng viện một số lượng đủ để thông qua dự luật. Edward đã miễn cưỡng bằng lòng, với điều kiện các khanh tướng vẫn từ chối ngân sách sau hai lần bầu cử liên tiếp. Sau tuyển cử tháng 1 năm 1910, các khanh tướng Bảo thủ chấp nhận ngân sách, trong tình hình là chính phủ hiện tại đã có sự ủy nhiệm của cử tri, để thông qua dự luật mà không cần Thượng viện.[50]

Asquith cố gắng hạn chế quyền lực của các Lãnh chúa thông qua việc cải cách hiến Pháp, và một lần nữa bị bác bỏ ở Thượng viện. Một hội nghị cải cách hiến pháp bị thất bại vào tháng 11 năm 1910 sau 21 cuộc họp. Asquith và Huân tước Crewe, người lãnh đạo đảng Tự do trong Thượng viện, đề nghị George ban lệnh giải thể, dẫn đến cuộc bầu cử thứ hai, và hứa tấn phong đủ số lượng các khanh tướng đảng Tự do nếu Thượng viện lại bác dự luật một lần nữa.[51] Nếu George từ chối, chính phủ Tự do sẽ từ chức, điều này sẽ dẫn đến sự lan truyền trong các đảng chính trị rằng Quốc vương đã đứng về phe "các khanh tướng chống lại người dân".[52] Hai thư ký riêng của Quốc vương, Huân tước KnollysStamfordham, cho ông những lời khuyên trái ngược nhau. Knollys, đảng viên Tự do, khuyên George chấp nhận yêu cầu của Chính phủ, trong khi Stamfordham, thuộc đảng liên minh, khuyên George chấp nhận nội các từ nhiệm.[53] Cũng như phụ thân, George miễn cưỡng đồng ý giải tán chính phủ và tấn phong khanh tướng, mặc dù ông cảm thấy các bộ trưởng đã lợi dụng sự thiếu kinh nghiệm của vị vua mới lên ngôi để doạ nạt ông.[54] Sau cuộc tuyển cử tháng 12 năm 1910, các Lãnh chúa thông qua dự luật trong lúc mối đe dọa tràn ngập Thượng viện với các khanh tướng mới.[55] Tiếp theo là Đạo luật Nghị viện 1911 vĩnh viễn loại bỏ – với một vài trường hợp ngoại lệ – quyền phủ quyết của Thượng viện. Quốc vương về sau nhận thấy rằng Knollys đã ngăn giữ không cho đến tai ông những thông tin rằng phe đối lập đã chuẩn bị thành lập chính phủ nếu đảng Tự do đồng loạt từ chức.[56]

Các cuộc tuyển cử năm 1910 đã để lại hậu quả là chính phủ của đảng Tự do phải phụ thuộc vào sự ủng hộ của Đảng Dân tộc Ireland. Theo mong muốn của Đảng dân tộc, Asquith giới thiệu đạo luật trao quyền tự trị cho Ireland, nhưng Đảng Bảo thủ và Liên minh chống lại.[15][57] Bất bình gia tăng đối với Dự luật Tự Trị, thứ sẽ không bao giờ thành luật nếu không có Đạo luật Nghị viện, quan hệ giữa Knollys và đảng Bảo thủ ngày càng tồi tệ, và ông ta bị ép phải về hưu.[58] Trong tuyệt vọng để tránh viễn cảnh nội chiến ở Ireland giữa Liên minh và Đảng Dân tộc, George triệu tập một cuộc gặp giữa tất cả các bên tại Cung điện Buckingham vào tháng 7 năm 1914 trong một nỗ lực để đàm phán.[59] Sau 4 ngày, cuộc họp kết thúc mà không đi đến thỏa thuận nào.[15][60] Ngày 18 tháng 9 năm 1914, Quốc vương – vốn đã cân nhắc việc phủ quyết[61] – lại đồng tình Dự luật Tự trị sau khi nó đã được thông qua bởi Westminster, nhưng việc thực hiện nó bị hoãn lại bởi đạo luật treo vì sự bùng nổ của Chiến tranh thế giới thứ nhất.

Chiến tranh thế giới thứ nhất

"A good riddance"
Một bức tranh đả kích năm 1917 của tạp chí Punch mô tả vua George đang phủi sạch hết mọi danh hiệu Đức.

Từ 1914 đến 1918, Anh và các đồng minh tham gia chiến tranh với Liên minh Trung tâm, được lãnh đạo bởi Đế quốc Đức. Hoàng đế Đức Wilhelm II, người đã cho dân Anh chứng kiến nỗi kinh hoàng của chiến tranh, là anh họ của Quốc vương George V. Ông nội của Quốc vương và ông ngoại của Đức hoàng là Prince Albert xứ Saxe-Coburg và Gotha; do đó, Quốc vương và các con ông từ lúc chào đời đã mang danh hiệu Prince và Princess của xứ Saxe-Coburg và Gotha và Công tước và Công nương xứ Saxony. Vương hậu Mary, mặc dù là người Anh theo huyết thống của mẹ bà, nhưng cha bà là Công tước xứ Teck, một hậu duệ của Công tước Württemberg nước Đức. Nhà vua có anh em rể và anh em họ là thần dân Anh nhưng mang danh hiệu Đức chẳng hạn như Công tước và Công nương xứ Teck, Vương thân và Công nương xứ Battenberg, và Vương thân và Công nương Schleswig-Holstein. Khi H. G. Wells viết về "triều đình ngoại quốc và tẻ nhạt", George tuyên bố một câu nổi tiếng: "Trẫm có thể gọi là tẻ nhạt, nhưng trẫm sẽ bị nguyền rủa nếu như trẫm ngoại quốc."[62]

Ngày 17 tháng 7 năm 1917, George xoa dịu dân Anh bằng cách ra một thông cáo vương thất đổi tên triều đình từ tên Đức là Nhà Saxe-Coburg và Gotha thành Nhà Windsor.[63] Ông và tất cả bà con người Anh từ bỏ các danh hiệu Đức, mà chấp nhận tên họ Anh. George bù trừ những bà con nam bằng cách tấn phong họ là quý tộc Anh. Em họ của ông, Vương thân Louis xứ Battenberg, người vào đầu cuộc chiến bị buộc phải từ chức Hải vụ Đại thần thứ nhất vì phong trào chống Đức, trở thành Louis Mountbatten, Hầu tước Milford Haven thứ nhất, trong khi anh trai của Vương hậu hậu Mary đổi thành Adolphus Cambridge, Hầu tước Cambridge thứ nhất, và Alexander Cambridge, Bá tước Athlone thứ nhất.[64] Em họ của George Công nương Marie LouiseCông nương Helena Victoria xứ Schleswig-Holstein phải từ bỏ đất phong của họ.

Tập tin:Tsar Nicholas II & King George V.JPGGeorge V (bên phải) và người anh em họ có thể chất tương tự ông Sa hoàng Nikilai II của Nga mặc quân phục Đức ởn Berlin vào trước cuộc chiến.[65]

Trong Những lá thư rõ ràng công bố ngày 11 tháng 12 năm 1917 Quốc vương giới hạn kính xưng "His (or Her) Royal Highness" và chức tước trên danh nghĩa "Prince (hoặc Princess) của Liên hiệp Anh và Ireland" đối với các con của Quốc vương, và con trai trưởng còn sống của Thân vương xứ Wales.[66] Những lá thư rõ ràng cũng chỉ rõ rằng "kính xưng Royal Highness, Highness hay Serene Highness, và những chức tước trên danh nghĩa của Prince và Princess sẽ ngừng cấp ngoại trừ những chức danh đã được cấp và vẫn không bị hủy bỏ". Người thân của George đã đứng về phe Đức, chẳng hạn như Prince Ernst August của Hanover, Công tước Cumberland và Teviotdale thứ ba (cháu chắt nội đích tôn của George III) và Vương thân Carl Eduard, Công tước Albany và công tước đương nhiệm của Saxe-Coburg và Gotha (cháu nội dòng nam của Nữ vương Victoria), bị đình chỉ tư cách quý tộc anh bởi Đạo luật tước danh hiệu năm 1919. Dưới áp lực từ Vương thái hậu Alexandra, George cũng từ bỏ những cờ lệnh Gater của các thân thuộc người Đức của ông trong Nhà nguyện St George, Lâu đài Windsor.[67]

Khi Sa hoàng Nikolai II của Nga, người em họ của George (mẹ của hai người là chị em với nhau), bị lật đổ trong Cách mạng Nga 1917, chính phủ Anh cho phép Nga hoàng và gia đình ông ta đến tị nạn chính trị, nhưng lo ngại rằng cuộc cách mạng có thể lan tới đảo Anh, nên George nghĩ rằng sự hiện diện của hoàng gia Nga là không phù hợp.[68] Mặc dù những tuyên bố về sau của Huân tước Mountbatten của Miến Điện rằng Thủ tướng Lloyd George phản đối việc cứu viện cho hoàng gia Nga, những bức thư của Lord Stamfordham gợi ý rằng chính George V là người phản đối ý kiến này, chứ không theo lời khuyên từ chính phủ.[69] Chi tiết kế hoạch cuộc giải cứu được thực hiện bởi MI1, một chi nhánh của cơ quan mật vụ Anh,[70] nhưng vì thế lực ngày càng lớn của những người cách mạng Bolshevik và những khó khăn lớn hơn từ cuộc chiến tranh, kế hoạch không bao giờ được thực hiện.[71] Nga hoàng và gia đình ông vẫn ở Nga, nơi họ bị giết bởi những người Bolsheviks năm 1918. Vào năm sau, Hoàng thái hậu nước Nga (dì của George) Maria Feodorovna (Dagmar của Đan Mạch) cùng các thành viên khác của hoàng gia được cứu thoát ở Crimea bởi các tàu Anh.

Hai tháng trước khi kết thúc chiến tranh, con trai út của Quốc vương, John, chết ở tuổi 13 sau một thời gian dài bệnh tật. George đã được Vương hậu Mary thông báo về cái chết của cậu, bà viết, "[John] là người khiến chúng tôi lo lắng trong nhiều năm ... Sự suy sụp đầu tiên trong gia đình chúng tôi thật khó chịu nhưng mọi người thật tốt bụng & cảm thông & và giúp đỡ chúng tôi rất nhiều."[72]

Tháng 5 năm 1922, Quốc vương đến thăm Bỉ và miền bắc nước Pháp, thăm nghĩa trang chiến tranh thế giới và đài tưởng niệm được xây dựng bởi Imperial War Graves Commission. Sự kiện được miêu tả trong một bài thơ, The King's Pilgrimage của Rudyard Kipling.[73] Chuyến thăm này, và một chuyến thăm ngắn đến Ý năm 1923, là những lần hiếm hoi George đồng ý rời khỏi nước Anh làm việc công sau khi chiến tranh chấm dứt.[74]

Trị vì sau Đại chiến

Quốc vương George V năm 1923.

Trước chiến tranh thế giới, nhiều nước châu Âu được cai trị bởi các quân vương là người thân của George, nhưng trong và sau thế chiến, chế độ quân chủ ở Áo, Đức, Hi Lạp, Tây Ban Nha, cũng như Nga, suy yếu hoặc diệt vong bởi các cuộc cách mạng và chiến tranh. Tháng 3 năm 1919, Trung tá Edward Lisle Strutt được sự ủy nhiệm của cá nhân Quốc vương đến hộ tống cựu hoàng Karl I của Áo và gia đình ông ta đến tị nạn tại Switzerland.[75] Năm 1922, một con tàu của Hải quân hoàng gia được gửi đến Hi Lạp để giải cứu em họ của George, Vương tử và Công nương Andrew. Vương tử Andrew là cháu của Thái hậu Alexandra thông qua anh trai của bà là Georgios I của Hy Lạp, và Công nương Andrew là con gái của Vương thân Louis xứ Battenberg, một vương thân người Đức được phong làm quý tộc Anh năm 1917. Các con của họ bao gồm Prince Philip, người về sau kết hôn với cháu nội của George, Elizabeth II. Chế độ quân chủ ở Hi Lạp được trung hưng lần nữa không lâu trước cái chết của George.

Bất ổn chính trị tiếp tục gia tăng ở Ireland vì Đảng dân tộc phát động cuộc chiến vì nền độc lập; George bày tỏ nỗi kinh hoàng của ông vì việc chính phủ cho phép sự giết chóc và trả đũa với Thủ tướng David Lloyd George.[76] Tại phiên khai mạc Quốc hội Bắc Ireland ngày 22 tháng 6 năm 1921, Quốc vương, trong bài phát biểu một phần được soạn bởi Lloyd George và tướng Jan Smuts, kêu gọi hòa giải. Một vài tuần sau, một thỏa thuận ngừng bắn được công bố. Các cuộc đàm phán giữa Anh và những người li khai Ireland đã dẫn đến Hiệp ước Anh-Ireland. Cuối năm 1922, Ireland được phân chia, Nhà nước Ireland tự do được thành lập, và Lloyd George rời khỏi chức vụ.

Quốc vương và các cố vấn lo ngại về sự trỗi dậy của chủ nghĩa xã hộiphong trào công nhân ngày càng phát triển, điều mà họ nhầm lẫn là có liên quan đến chủ nghĩa cộng hòa. Các nhà xã hội không còn tin tưởng và những khẩu hiệu chống lại nền quân chủ và sẵn sàng đi đến thỏa thuận nếu phe bảo hoàng tỏ có những hành động trước. George đã chấp thuận một nền dân chủ rộng rãi hơn nữa, kể cả việc vượt qua lằn ranh giai cấp và đem đến một chế độ quân chủ gần gũi hơn với quần chúng và tầng lớp lap động-một sự thay đổi như một vở kịch cho Quốc vương, người bây giờ đang thoải mái nhất với các sĩ quan hải quân và quý tộc có đất đai. Ông thiết lập mối quan hệ thân thiện với các chính trị gia Công đảng và cán bộ công đoàn. Ông từ bỏ cách ứng xử xa lánh xã hội của vương thất và tăng cường tính đại chúng của nó trong cuộc khủng hoảng những năm 1920 và trong hơn hai thế hệ sau đó.[77][78]

Những năm từ 1922 đến 1929 chứng kiến sự thay đổi thường xuyên trong chính phủ. Năm 1924, George bổ nhiệm Thủ tướng Công đảng đầu tiên, Ramsay MacDonald, trong sự vắng mặt của thế đa số trong ba đảng lớn. Sự tiếp thu lịch thiệp và hiểu biết của George đối với chính phủ Công đảng đầu tiên (kéo dài chưa tới một năm) làm lắng đi những nghi ngờ của các cảm tình viên trong đảng. Trong Tổng tấn công năm 1926 nhà vua khuyên chính phủ đảng Bảo thủ của Stanley Baldwin chống lại những hành động khiêu khích,[79] và một ngoại lệ khi ông gợi ý rằng những kẻ tấn công là "nhà cách mạng" nói rằng, "Hãy sống với tiền lương của họ trước khi các ngươi đánh giá họ"[80]

Hội nghị đế quốc 1926: George V và các thủ tướng bởi Đế quốc. Theo chiều kim đồng hồ từ điểm chính giữa phía trước: George V, Baldwin (Vương quốc Anh), Monroe (Newfoundland), Coates (New Zealand), Bruce (Úc), Hertzog (Nam Phi), Cosgrave (Irelang tự do), King (Canada).

Năm 1926, George tổ chức Hội nghị đế quốc ở London tại đó Tuyên ngôn Balfour chấp nhận các lãnh địa Anh được tăng thêm quyền tự trị "Cộng đồng tự trị trong đế quốc Anh, bình đẳng về địa vị, không bên nào nằm dướng bên nào". Năm 1931, Quy ước Westminster chính thức xác lập vị trí của George là "biểu tượng của liên kết tự do giữa các thành viên trong Khối thịnh vượng chung các quốc gia". Tuyên ngôn xác định "bất kì thay đổi nào trong luật pháp động chạm đến chuyện kế vị ngai vàng hay các huy hiệu và danh hiệu hoàng gia" đều đòi hỏi phải có sự chấp thuận của Nghị viện của các thuộc địa cũng như Nghị viện tại Westminster, chính phủ Anh không thể ban hành luật pháp cho các lãnh địa, ngoại trừ có thỏa thuận từ trước.

Trong sự bùng nổ của khủng hoảng tài chính thế giới, Quốc vương khuyến khích thành lập một Chính phủ Dân tộc năm 1931 lãnh đạo bởi MacDonald và Baldwin,[81][82] và tình nguyện cắt giảm danh sách dân sự để giúp cân bằng ngân sách.[81] Ông quan tâm đến sự mạnh lên của Đức dưới thời Adolf HitlerĐảng Quốc xã. Năm 1934, Quốc vương thẳng thắn nói với sứ thần Đức Leopold von Hoesch rằng Đức quốc bây giờ là hiểm họa của thế giới, và đang hướng về một cuộc chiến tranh trong vòng 10 năm nếu mọi chuyện vẫn như thế này; ông cảnh báo đại sứ Anh tại Berlin Eric Phipps để mắt tới đảng Quốc xã.[83]

Năm 1932, George đồng ý phát biểu thông điệp Giáng sinh vương thất trên radio, một sự kiện về sau trở thành thông lệ hàng năm. Lúc ông không thích sự đổi mới này nhưng đã bị thuyết phục bởi những lập luận rằng đó là điều mà thần dân của ông muốn.[84] Vào dịp Lễ kỉ niệm bạc của ông năm 1935, ông đã là một vị Quốc vương được yêu quý, ông nói lời đáp tạ sự bợ đỡ của đám đông rằng, "Trẫm không thể hiểu được, sau tất cả mọi thứ trẫm vẫn chỉ là một thằng cha rất bình thường."[85]

"No means test for these 'unemployed!" của Maro, 1935. Đại lễ bạc của Vua George V được tổ chức trên khắp nước Anh, nhưng trong bối cảnh tình hình tài chính tồi tệ không phải tất cả mọi người đều đồng tình với chi tiêu quá trớn của hoàng gia.

Quan hệ của George với trưởng tử và người thừa kế, Edward, trở nên tồi tệ trong những năm cuối đời. George thất vọng về thất bại của Edward trong việc ổn định cuộc sống và kinh hoàng vì mối quan hệ của anh ta với những phụ nữ đã có chồng.[15] Ngược lại, ông thương yêu Vương tử thứ hai, Vương tử Albert (về sau là George VI), và cưng chiều đứa cháu gái lớn tuổi nhất của ông, Princess Elizabeth; ông đặt biệt danh cho cô ta là "Lilibet", và cô trìu mến gọi ông là "Người ông Anh quốc".[86] Năm 1935, George nói với con trai ông Edward: "Sau khi trẫm chết đi, cậu sẽ hủy hoại chính cậu trong 12 tháng", và nói với Albert cùng Elizabeth: "Trẫm cầu Chúa rằng con trưởng của trẫm sẽ không bao giờ kết hôn và có con, để không có gì ngăn cản Bertie và Lilibet đến ngai vàng."[87][88]

Suy yếu và qua đời

Chiến tranh thế giới thứ nhất gây ra nhiều thiệt hại cho sức khỏe của George: ông bị thương nặng ngày 28 tháng 10 năm 1915 khi ngã ngựa trong một chuyến duyệt quân ở Pháp, và thói quen hút thuốc của ông làm trầm trọng hơn các vấn đề về hô hấp. Ông mắc bệnh nghẽn phổi mãn tínhviêm màng phổi. Năm 1925, theo chỉ định của các bác sĩ, ông miễn cưỡng đi điều dưỡng ở Địa Trung Hải, và đó là chuyến đi nước ngoài đầu tiên của ông kể từ sau chiến tranh, và cũng là lần cuối.[89] Tháng 11 năm 1928, ông lâm bệnh nặng có vẻ do nhiễm trùng máu, và trong hai năm tiếp theo con trai ông Edward đã gánh vác nhiều nhiệm vụ của ông.[90] Năm 1929, một đề nghị ra nước ngoài điều dưỡng bị nhà vua bác bỏ "bằng những câu nói cứng rắn".[91] Thay vào đó, ông nghỉ ngơi ba tháng ở Craigweil House, Aldwick, tại khu resort trên bờ biển Bognor, Sussex.[92] Vì kết quả của chuyến thăm của ông, thị trấn được mang thêm tên hậu tố "Regis", tiếng Latinh có nghĩa là "của quốc vương". Một huyền thoại khác về sau được phổ biến rằng những lời cuối cùng của ông, khi ông được thông báo rằng ông sẽ sớm hồi phục để lại đến thăm thị trấn, là "Bugger Bognor!"[93][94][95]

George không bao giờ hồi phục hoàn toàn. Trong những năm cuối, ông thỉnh thoảng phải dùng bình oxi.[96] Cái chết của em gái ông thương yêu Victoria tháng 12 năm 1935 làm ông buồn phiền sâu sắc. Vào buổi chiều ngày 15 tháng 1 năm 1936, Quốc vương bước vào phòng ngủ của ông ở dinh thự Sandringham và phàn nàn là bị cảm lạnh; ông vẫn ở trong phòng cho đến lúc chết.[97] Ông trở nên yếu dần đi, lúc mê lúc tỉnh. Thủ tướng Baldwin về sau nói rằng:

mỗi lần Đức vua có ý thức thì ngài quan sát hoặc hỏi han một ai đó, một vài lời nói thể hiện lòng biết ơn đối với sự tử tế được bài tỏ lúc này. Nhưng ngài đã nói với thư ký riêng của ngài khi ngài nhìn anh ta: "Đế quốc như thế nào?" Một câu nói không bình thường trong hoàn cảnh đó, và thư ký nói: "Tất cả đều tốt, thưa Bệ hạ, và Đế quốc", và nhà vua mỉm cười với anh ta rồi bất tỉnh một lần nữa.[98]

Ngày 20 tháng 1, ông đã gần chết. Các bác sĩ riêng của ông, đứng đầu là Huân tước Dawson của Penn, cho phát một bản tin với những từ ngữ sau đó trở nên nổi tiếng: "Cuộc đời của Quốc vương đang tiến gần đến hồi kết"[99][100] Nhật ký riêng của Dawson, được lật ra sau cái chết của ông và được công bố năm 1986, tiết lộ những lời cuối cùng của ông, là một lời nguyền rủa "Chúa nguyền rủa nhà ngươi!",[101] nói với y tá của ông, Catherine Black, khi cô ta đưa cho ông một viên thuốc an thần vào ngày 20 tháng 1. Dawson viết rằng ông đã đẩy nhanh cái chết của Quốc vương bằng cách cho ông một mũi có kết hợp morphinecocaine. Dawson ghi chú ông hành động như vậy để bảo vệ nhân phẩm của Quốc vương, giảm sự căng thẳng của gia đình, và do đó Quốc vương qua đời lúc 11:55 tối. và sự việc được công bố trên bản tin sáng của báo The Times chứ không phải là "một tờ báo buổi tối không thích hợp".[101][102]

Radio Times về ngày tang lễ, 28 tháng 1, 1936, đọc rằng "Sự dàn xếp sẽ được công bố qua chiếc microphone"

Nhà soạn nhạc người Đức Paul Hindemith đi đến một xưởng phim BBC vào buổi sáu sau khi Quốc vương qua đời và dành sáu giờ để viết Trauermusik (nhạc tang lễ). Nó được trình chiều vào buổi chiều cùng ngày trên chương trình phát sóng trực tiếp của BBC, với Adrian Boult tiến hành BBC Symphony Orchestra và nhạc sĩ độc tấu.[103]

Tại đám rước di thể của George vào quan tài tại Đại sảnh Westminster, một phần của Imperial State Crown rơi từ trên quan tài xuống rãnh nước. Vị tân vương Edward VIII, thấy được hình ảnh đó và cho rằng nó là một điều xấu cho triều đại mới của ông.[104][105] Như một dấu hiệu cho thấy sự tôn trọng người cha quá cố, bốn người con trai còn sống của George, Edward, Albert, Henry, và George, đứng suốt đêm để canh giữ quan tài, được gọi là "Sự thức khuya của các Vương tử, tại nhà táng vào cái đêm trước đám tang.[106] Sự kiện như thế không được lặp lại cho đến ngày mất của con dâu George, Thái hậu Elizabeth, năm 2002. George V được chôn cất tại Nhà nguyện St George, Lâu đài Windsor, ngày 28 tháng 1 năm 1936.[107] Edward thoái vị trước khi kết thúc năm đó, và em trai ông ta Albert, Công tước York, lên ngôi vua (lấy vương hiệu là George VI).

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: George_V //nla.gov.au/anbd.aut-an36288118 http://www.bmj.com/content/308/6941/1445.1.full http://www.britishpathe.com/video/coronation-of-hi... http://www.britishpathe.com/video/king-george-v-ju... http://www.flightglobal.com/pdfarchive/view/1919/1... http://www.irishexaminer.com/analysis/the-queen-in... http://www.oxforddnb.com/view/article/33369 http://aleph.nkp.cz/F/?func=find-c&local_base=aut&... http://www.maxschoenherr.de/Archiv/londonNews1936.... http://www.president.ee/en/estonia/decorations/bea...